Bính Hỏa tháng tám, mặt trời sắp hoàng hôn, ánh sáng còn lại của Bính Hỏa được phản chiếu toàn nhờ vào sông và biển nên vẫn dùng Nhâm Thủy giúp phản chiếu.
Bính Hỏa tháng bảy, tháng tám, như mặt trời lặn xuống phía Tây, ánh sáng tàn dư chiếu nơi biển sông, phản chiếu lấp lánh, dù dùng Nhâm Thủy cũng không thể thiếu Tỉ, An, vì khí thế của Bính Hỏa đã suy yếu. Dùng Tài ắt che Sát, dùng Thổ ắt lấp ánh sáng, chỉ có cách dùng Nhâm Thủy hỗ trợ, phản chiếu ánh lửa, và phải phối hợp với Tỉ, An, mới là Thượng cách.
Nếu Tứ trụ có nhiều Bính Hỏa, chỉ có một Nhâm Day cao nơi Can, đó là cách cục đặc biệt, phú quý vô cung. Nếu chỉ có một Nhâm ẩn nơi Chi, số mệnh Tú tài. Nếu Bát tự có nhiều Thổ sẽ vây khốn Thủy, là số mệnh Năng sĩ một phương. Nếu Bát tự không có Nhâm Thúg chỉ có Quý Thủy cũng có thể dùng nhưng thành đạt không lâu dài.
Nếu dùng Nhâm, quan trọng nhất phải có nhiều Bính trong Tứ trụ, tháng bảy, tháng tám, cùng đều vậy. Số mệnh mạnh có Tài vượng sẽ sinh Sát, nhất định được phú quý. nguyên nhân do Kim, Thủy tiến khí. Nếu Nhâm Thủy ẩn nơi Chi, sức mạnh của Dụng Thẩn mỏng, nếu được vận số dẫn dắt thoát ra cũng có thể hiển đạt, nếu không, sẽ nghèo khổ. Xấu nhất Bát tự có nhiều Mậu, sẽ vây khốn Thủy, nên nhiều Kỷ làm đục nước, chỉ là số mệnh kẻ tầm thường. Binh Hỏa dùng Nhâm, như mặt trời chiếu nơi sông biển, ánh sáng lấp lánh. Quý Thủy như mưa móc nơi ao hồ nên vẫn có thể dùng, chỉ lo mưa nắng thất thường.
Nếu có nhiều Tân xuất hiện nơi Can, không thể tạo thành cách cục Tòng hóa, nhưng được hưởng phúc đức còn sót lại của tổ tiên, nếu người thân đã chết, nghèo khổ suốt đời. Nếu thấy Đinh khắc chế Tân, là kẻ gian trá vô thường; nếu người nữ có Bát tự này, là kẻ nhiều chuyện, dâm đãng.
Bính Hỏa sợ gặp Tân, nếu Bát tự có nhiều Tân xuất hiện ở Can, cần có Chi hợp thành Kim cục, tạo thành cách cục Tòng tài mới là mệnh phú quý. Nếu trụ có Kiếp Ấn, không thể thành cách cục Tòng hóa không phải mệnh tốt. Nếu Bính có chút nguồn, được gọi là được hưởng phúc đức dư thừa của tổ tiên. Mệnh Bát tự gồm “Mậu Tý, Tân Dậu, Bính Thân, Kỷ Sửu", Hỏa vào tử địa ở cung Dân, Kim thần đang vượng, không phải do Ấn, Ti trong bản mệnh giúp thân vượng, không thể dùng Tài Quan. Có Đinh khắc chế Tân, Bính Hỏa vẫn suy yếu, tiến lui đều hỏng, nên nếu mệnh nam là người gian trá, mệnh nữ dâm đãng.
Nếu Chi hợp thành Kim cục, không có Tân xuất hiện ở Can, không luận theo cách cục Tòng tài, là mệnh của kẻ Can, không có Tỉ Kiếp chính là cách cục Tòng tài, là mệnh của kẻ chết đói, Nếu Chi hợp thành Kim cục, có Tân xuất hiện ở Can, không có Tỉ Kiếp chính là cách cục Tòng tài, là mệnh của người giàu có, hoặc được quý nhân giúp đỡ, thân thích giúp sức, vợ hiền đảm đang.
Trên viết nếu Bát tự có Tân Kim xuất hiện trong Can, Chi không tạo thành Kim cục, không thể Tòng hóa. Về trường hợp nếu Chi hợp thành Kim cục, Tân Kim không xuất hiện trong Can, cũng không luận theo cách cục Tòng tài, vì Tài nhiều bản mệnh yếu, tuy ở nơi giàu có, vẫn như kẻ chết đói.
Nếu Tân Kim xuất hiện ở Can, Chi tạo thành Kim cục, không có Tỉ, An mới là cách cục Tòng tài thật sự. Tài cách thật, cục chính, nên là mệnh người thành đạt vinh hiển, Tòng cách chủ yếu chỉ mệnh có người giúp đỡ nên được phú quý, còn cách cục Tòng tài chỉ mệnh có vợ đảm đang.
Tóm lại, Bính Hỏa tháng tám, dùng Nhâm là chính, Quý là phụ, nếu dùng Thủy, Kim là vợ, Thủy là con; nếu dùng Mộc, Thủy là vợ, Mộc là con.
Bính Hỏa tháng tám, thân mạnh dùng Nhâm, Tài vượng sinh Sát, đó là thượng cách, (xem đoạn trên). Nếu Nhâm, Quý xuất Can, Bính Hỏa yếu, phải dùng Ân, vì tháng tám là tử địa của Hỏa, mặt trời sắp lặn, nếu không có Giáp Mộc không thể hóa hợp Nhâm Thủy để sinh Bính Hỏa, tương tự như Bính Hỏa tháng bảy.