Tháng năm, khí của Hỏa càng nóng bức, nếu có hai Nhâm, một Canh xuất hiện trong Can mới là thượng cách, nếu chỉ có một Nhâm không có Canh, là số mệnh Cống giám hoặc Sinh viên, nhưng phải có vận số tốt mới được. Nếu Mậu, Kỷ xuất hiện trong Can, thêm có Đinh trong Can sẽ hóa hợp với Nhâm, là số mệnh kẻ tầm thường. Nếu không có Canh, Nhâm xuất hiện trong Can, nhưng lại có Thủy trường sinh ở cung Thân và được Kim đang ở Lộc vị trợ giúp cho Thủy, rất tốt, là số mệnh của người có thể vào Từ lâm (viện Hàn lâm), chỉ sợ có Mậu, Kỷ tạp loạn, lại chỉ là mệnh Dị đồ ân phong (được phong thưởng không theo đường chính).
Bính Hỏa tháng năm, Nguyệt lệnh là Dương Nhẫn, khí thế của Hỏa hừng hực, nếu có hai Nhâm một Canh phối hợp, mới là số mệnh cao quý; nếu có một Nhâm, không có Canh, là nước không nguồn; nếu không có vận tốt trợ giúp, đường công danh không được hiển vinh. ch. được cỡ Cống giám hoặc Sinh viên mà thôi. Nếu là Nho Thủy thì còn chút khí thế sự sinh vượng, còn nếu dòng Quý Thủy mà không có Kim trợ giúp đế sinh Thủy ắt bị Hỏa đốt cạn, hoặc dùng Nhâm Thủy tuy không đến mức bị Bính Hỏa đốt cạn, nhưng kị Mậu, Kỷ Thổ khắc chế Trường hợp Đinh và Nhâm hóa hợp, cũng là số mệnh kả vô dụng, do đó nếu Nhâm Thủy bị Mậu, Kỷ khắc chế nhưng có Canh Kim nằm giữa Mậu và Nhâm vẫn còn có thể cứu vãn. Còn trường hợp Đinh, Nhâm hóa hợp, tức cách cục Dương Nhẫn hợp Sát, vì mệnh chỉ có một Nhâm không có Canh, Nhâm Thủy không có nguồn sinh Thủy, nên bị Đinh Hỏa hóa hợp, không những không thể khắc chế Hỏa mà còn muốn cho Hỏa mạnh thêm (ở đây ý nói Đinh, Nhâm hóa hợp, tạo ra Mộc, Mộc lại sinh Hỏa và tiết chế Thủy) mất tác dụng giải tỏa sức nóng từ Hỏa của Nhâm Thủy. Trường hợp nếu không có Canh, Nhâm xuất hiện trong Can, nhưng thấy có Thân thì cũng tốt vì trong cung Thân luôn tự sinh ra Thủy, lại có Kim ở Lộc vị nên phát huy tốt nhất được Dụng Thần. Những trường hợp này cũng giống như trường hợp Canh, Nhâm xuất hiện trong Can, khiến Mậu, Kỷ tạp loạn, làm mất tính trong trẻo của nước, như vậy chỉ là số mệnh được giàu không quý, Dị đồ công danh (công danh có được không qua con đường chính thức).
Nếu Chi hợp thành Hỏa cục, không thấy có một giọt nước nào (hành Thủy), là số mệnh kẻ đi tu, cô độc. Dù có một hay hai Quý Thủy, nhưng vì Hỏa, Thổ quá nhiêu, Quý Thủy cũng không đủ khắc chế, là số mệnh người bị mù mắt, nếu được Mậu, Kỷ xuất Can, giúp giảm khí thế của Hỏa, vẫn bị hình khắc nên là số người cô độc, nếu lại có Bắc vận rất xấu vì do quá khô nóng, lại gặp nước thêm vào (Bắc phương thuộc Thủy) quả là tai họa.
Nếu Chi hợp thành Hỏa cục, không có Thủy sẽ khô nóng quá độ, là số mệnh của người bị bệnh liệt nửa người, nếu có một hai giọt Quý Thủy, không có Canh Kim giúp sinh Thủy (tức nước không nguồn) lại có Hởa, Thổ quá nhiều, thì nước bị đốt khô, không thể giải tỏa sức nóng nên không có sức khắc chế. Quý Thủy thuộc con mắt, Quý Thủy khô tức mắt mờ. Nếu Mậu, Kỷ xuất Can, tuy có thể giảm bớt khí thế của Hỏa, nhưng lửa nóng đốt khô, không còn sức sống, nên mệnh bị nhiều hình khắc, nếu cách cục lúc đầu không có Kim, Thủy nếu hành Bắc phương vận, sẽ bị tai họa, vì lửa (Hỏa) và đất (Thổ) quá khô nóng, nếu có nước thêm vào, càng kích thích hơi nóng bốc lên. Theo cách cục Hỏa viêm Thổ táo là số mệnh kẻ giàu sang, duy chỉ có hiện tượng bị bệnh liệt nửa người, nên không hoàn mỹ. Theo cách cục này, không phải đều là mệnh kẻ bị hình khắc cô quả, hoặc nếu hành Bắc phương vận, cũng chưa chắc có họa, ngược lại có thể còn tốt lành. Tại sao vậy? Vì Nhật chủ Bính Hỏa dùng Thổ làm Dụng Thần, nếu hành Thủy vận, Thủy bị Thổ khắc, như vậy Thổ được Thủy nhuận, Thổ nhuận có thể sinh Kim, Kim tượng trưng cho Tài nên được giàu có, nhưng nếu hành Mộc Hỏa vận lại xấu, nếu Nhật chủ là Mậu Thổ, Bính Hỏa là Dụng Thần, vận số hành Bắc phương, phần nhiều bị tai họa.
Nếu Bát tự hợp thành cách cục viêm thượng (lửa nóng bốc cao) nhưng vận số ở trụ không có Canh, Tân, chỉ có nhiều Giáp, Ấn là số mệnh đại phú đại quý, nhưng cách cục này cũng không được có Thủy vận.
Tứ trụ không có Kim và Thủy, Chi lại hợp thành Hỏa cục, hoặc Hỏa tụ phương Nam, là cách cục viêm thượng (lửa nóng bốc cao). Hỷ thần Giáp Ât Mộc sinh, sẽ làm Hỏa hư nhưng vẫn nóng, nên là số mệnh đại phú quý. Nếu có Thổ, Hỏa sẽ tiết chế luôn Thổ, làm cho lửa nóng đất khô, số mệnh giàu có nhưng không cao quý, cách viêm thượng cần có Mộc dân hóa, nhưng không thể có Thủy vận, mới thành cách cục, vì Hóa cục khí thế thiA lệch một bên, nếu có Thủy vận sẽ phá vỡ cách cục, nên dễ bị tại hoa bất trắc. Nếu khí thế của lửa nóng và há cục cao (viêm thượng) mà lại có vận Đông Nam hợp với tính chất của viêm thượng, nếu vận hướng Tây Bắc là hướng hạ, nên không chỉ Thủy vận phá vỡ cách cục là không tốt mà vận hành Tây Bắc cũng là bất lợi.
Nếu Canh và Nhâm cùng xuất hiện trong Can, vô cùng phú quý, nhưng nếu vận số không phù trợ, khó đạt công danh. Nếu Canh và Quý cùng xuất hiện trong Can, có cuộc sống sung túc, nếu trong Chi Hỏa yếu, không bị bệnh nơi mắt, còn nếu trong Chi có Quý Thủy, là mệnh Dị đồ (đã chú thích ở trên).
Bính Hỏa tháng năm, Dụng Thần chính là Nhâm, Canh, như đoạn đầu đã viết, Quý Thủy tuy cũng có thể giải trừ sức nóng của Hỏa, nhưng lại làm khí thế Bính Hỏa không trong trẻo, nên chỉ giàu có chứ không cao quý, Quý Thủy lại tượng trưng cho mắt, nếu trong Chi Hỏa yếu, thì Quý Thủy không đến nỗi bị đốt cạn, mắt không bị bệnh. Nếu trong Chi có Thủy, lại là Thủy của cung Tý, nên số mệnh là Dị đổ.
Nếu Chi hợp thành Thổ cục, Hỏa bị tiết chế, khí thế giảm khá nhiều, nếu có Nhâm trợ giúp Hỏa, Giáp xuất Can khắc chế Thổ, là người số mệnh đẩy đủ, phú quý, phúc thọ.
Chi hợp thành Thổ cục, không có Canh, Nhâm làm Dụng Thần mà có Nhâm, Giáp làm Dụng Thần, nếu Thổ nhiều không thể không có Giáp để khắc chế, nhưng Giáp Mộc vào nhà của Hỏa, có cái họa tư thiệu, nếu không được Nhâm Thủy hỗ trợ, Giáp Mộc không đủ sức khắc chế Thổ, nên Bát tự có Giáp, Nhâm làm Dụng Thần, Thổ bị chế ngự và Hỏa lại được sinh phù, là số người được phú Quý, phúc thọ toàn vẹn. Canh Kim sẽ làm giảm khí thế của Mộc, nên có thể làm Dụng Thần, nhưng không đủ quý, chỉ được xem là có Thủy để nhuận Thổ mà thôi.
Nếu lấy Nhâm làm Dụng Thần, Kim là vợ, Thủy là con.
Bính Hỏa tháng năm, dùng Nhâm Thủy làm Dụng Thần chính, Canh Kim hỗ trợ.