Bính Hỏa tháng chín, lại càng suy yếu hơn nữa, kị Bập Thổ bị che mất ánh lửa, trước tiên cần dùng Giáp Mộc, kế đến dùng Nhâm Thủy.
Bính Hỏa tháng chín, Hỏa đi vào đất Mộ, dễ bị Thể dập tắt ánh sáng, và cũng kị nhất bị che mất ánh lửa. Binl Hỏa gặp Nhâm Thủy, như mặt trời xuống tới đường chân trời, ánh sáng tàn dư chiếu trên sông hồ phản chiếu trợ lại có phần rực rỡ hơn, nên trước tiên cần dùng Giáp Mộc khắc chế Thổ, rồi dùng Nhâm Thủy giúp Bính Hỏa phản chiếu.
Nếu Giáp, Nhâm cùng xuất hiện trong Can, là mệnh khoa giáp, phú quý phi phàm; nếu không có Nhâm phò Bính và giúp Giáp, được Quý xuất hiện trong Can, cũng là mệnh Dị đồ hiển đạt. Nếu Nhâm, Quý tàng Chi, chỉ là mệnh Cống giám. Nếu Giáp ẩn Nhâm hiện, không có Canh phá Giáp, có thể làm Tú tài"). Nếu Bát tự có Canh, Mậu, Canh vây khốn Mộc, Mậu sẽ chặn dòng của Thủy, chỉ là mệnh kẻ vô dụng. Nếu Bát tự không có cả Giáp, Nhâm và Quý là cách cục xấu (Hạ cách).
Tháng chín, Thổ ráo Mộc khô (đất khô cây héo), nếu dùng Giáp Mộc, không thể thiếu nước. Nhâm Thủy hay Quý Thủy đều có tác dụng như nhau, nhưng Nhâm Thủy có thêm công dụng trợ giúp cho Bính Hỏa, còn Quý Thủy chỉ có công dụng duy nhất giúp nhuận Mộc, nên có khác nhau trong việc ứng nghiệm.
Nếu Bát tự chỉ toàn Hỏa và Thổ, tuy Hỏa, Thổ không mạnh, cũng tự làm cho bị nóng khô, nên mệnh nếu không tha hương đất khách, cũng bôn ba suốt đời, hoặc nếu đi tu sẽ được thanh nhàn, còn nếu chỉ toàn Hỏa và Thổ, không có cả Canh, Tân, Nhâm, Quý xuất hiện nơi Can, là số mệnh nghèo khổ, chết yểu.
(1) Vào thời Tống, tất cả những người đi thi cử nhân đều được gọi là Tú tài, đến thời Minh, Thanh, Tú tài là danh từ chuyên dùng để chỉ những Sinh viên được vào học ở trường huyện.
Cung Mậu là Mộ khố của Hỏa, cùng với Thổ tháng Mùi (tháng chín) là đất khô, làm giảm khí thế của Bính Hộg, Mệnh Bát tự gồm: “Mậu Tuất, Kỷ Mùi, Bính Tuất. Ất Mùi" (như bảng sau đây). Bính Hỏa không manh lại khô hạn, là mệnh ra đời ở cung Ly, Canh, trong Tứ tru lai không có Canh, Tân, Nhâm, Quý cứu giúp, rốt cuộc là mệnh người nghèo khổ, chết yểu.
Nếu trong Bát tự, Chi hợp thành Hỏa cục, là cách cục viêm thượng (lửa nóng bốc cao) nhưng không đúng thời, nếu vận số ở Tây Bắc là mệnh nghèo khổ, không lo được cho vợ con.
Bính Hỏa tháng chín, rơi vào Mộ địa, viêm thượng không đúng thời, phàm cách cục viêm thượng, vận số phải ở Đông Nam, mới hợp với tính chất viêm thượng và được tốt lành. Nếu vận hành Tây Bắc, dù được cách cục viêm thượng đắc thời cũng khó phát đạt, huống đây không đúng thời.
Bát tự có Ký Thổ xuất Can, Giáp Mộc không xuất hiện trong Can, tuy có Tỉ Kiên giúp thân cũng khó khắc chế Thổ đang lúc nắm quyền, chỉ là số mệnh vô dụng.
Vào tháng chín, đất khô và nặng, cần phải lấy Thủy nhuận Giáp Mộc làm Dụng Thần, nếu không có Nhâm, Quý, Giáp có nhiều Bính Hỏa cũng vô ích, vì sẽ bị Mậu, Kỷ che lấp.
Nếu dùng Giáp, Thủy là vợ, Mộc là con; nếu dùng Nhâm, Kim là vợ, Thủy là con. Mậu, Kỷ xuất hiện ở Can cần phải có Giáp, vì Giáp có thể khắc chế Thổ nên nói có thuốc hết bệnh mới quy, nhưng có Giáp xuất ở Can phải có Nhâm hoặc Quý năm ở Chi để trợ giúp, Nếu Hỏa nhiều và xuất hiện trong Can, lấy Nhâm, Quý khắc chế Hỏa, nhuận Thổ để giúp Giáp Mộc, nên Bính Hỏa tháng chín, lấy Nhâm, Quý làm Dụng Thần chính, Giáp Mộc khắc chế Thổ là phụ trợ.