Bính Hỏa tháng mười, mặt trời lặn xuống núi, nếu có. Giáp, Mậu, Canh cùng xuất hiện trong Can, là số mệnh khoa giáp, nhưng nếu phong thổ bất cập (xem chú thích) thì chỉ được Tuyển bạt (xem chú thích), người số mệnh này tính cách thanh cao, nhã nhặn, có tài lãnh đạo.
Bính Hỏa tháng mười, rơi vào Tuyệt địa, Hưu tù cùng cực, nên dùng Giáp Mộc để sinh Hỏa, trong cung Hợi, Nhâm Thủy nắm quyền (tháng mười, Nhâm Thủy mạnh), Giáp Mộc tuy trường sinh nhưng không vượng, gỗ ướt không nhóm được lửa. Nếu có Mậu Thổ khắc chế Thủy, có vun bồi cho Mộc, nếu Mộc vượng, đương nhiên sinh Bính Hỏa, nhưng Bính Hỏa tốt nếu gặp Nhâm Thủy, Mậu Thổ khắc chế Nhâm Thủy, mất tác dụng phản chiếu ánh sáng của Nhâm Thủy, nên cần có Canh Kim hỗ trợ Canh Kim hóa hợp Mậu Thổ sinh Nhâm Thủy. Dụng Thần lấy Sát An tương sinh, nên nói nếu Giáp, Mậu, Canh cùng xuất hiện trong Can, là số mệnh phú quý.
Nếu Bát tự có Bính nhật lại được Tân thấu, lại gặp Thìn là hóa hợp đúng thời, là mệnh đại quý.
Trong việc hóa khí, khó hóa nhất là Bính Hỏa gặp Tân, khó hơn rất nhiều so với trường hợp Giáp Mộc hoa hợp với Kỷ.
Nếu Bát tự có nhiều Thủy nhưng có Giáp, không cơ Mậu, khó tạo thành cách cục Tòng sát, cần dùng Ký Thở hòa lẫn với Nhâm Thủy mới tốt.
Tháng mười (cung Hợi), Giáp Mộc trường sinh, tuy ng Tứ trụ có nhiều Nhâm, Nguyệt lệnh đắc lộc, không thể luận theo cách cục Tòng sát, vì Giáp Mộc tiết chế khí thế của Sát, Sát Ấn tương sinh, Bính Hỏa tuyệt mà không tuyệt không thế tạo thành cách cục Tòng sát, cần dùng Kỳ Thổ hòa với Nhâm Thủy, hòa lẫn chứ không khắc chế, vì vào tháng mười, Nhâm Thủy có khí thế dâng tràn, Kỷ Thổ không thể khắc chế được. Nếu nước hòa với đất có thể sinh Mộc, Mộc là nguồn của Bính Hỏa, nên nếu có Giáp Mộc xuất Can rất tốt, nếu Bát tự không có Giáp, lấy Giáp Mộc trong cung Hợi (tháng mười) làm Dụng Thần, vì Mộc tháng mười có sức sống, có thể dùng được. Giáp Mộc tháng mười gặp Mão, Mùi sẽ hội thành cục, vì Mão, Mùi cũng mạnh như Mộc. Trường hợp Hợi hội với Mùi cũng giống như trường hợp Kỷ Thổ hòa lẫn Nhâm Thủy, Hơi có thể sinh Thổ. Thổ khắc chế Thủy vun bồi cho Mộc, từ đó có thể sinh ra Hỏa, đó chính là ý nghĩa phản sinh.
Bát tự nếu có nhiều Nhâm, nhiều Giáp trong Tứ trụ, luận theo cách cục Khí mệnh Tòng sát (bỏ bản mệnh theo Sát), tuy không được khoa giáp, cũng không mất cửa làm quan.
Trường hợp cung Hợi có Giáp, cung Thân có Canh, Canh Kim khắc chế Giáp, cơ hội sống của Mộc bị đoạn tuyệt, lúc đó Bính Hỏa mới có thể Tòng sát.
Tóm lại, Bính Hỏa tháng mười, Mộc nhiều dùng Canh, Thủy nhiều dùng Mậu, Hỏa nhiều dùng Nhâm, tùy nghi châm chước sử dụng. Nếu Thủy nhiều không có Mậu, Mộc thịnh không có Canh, chỉ là mệnh kẻ tầm thường.
Đó là nói về cái dụng tùy bệnh cho thuốc, khác với trường hợp Giáp, Mậu, Canh cùng xuất hiện trong Can nói ở đoạn đầu tiên. Mộc vượng dùng Canh, tức dùng Tài 145
tồn Ấn, Thủy vượng nên có Mậu, dùng Mậu Thổ làm đa điều ngăn Thủy. Nhưng Bính Hỏa cần phải là sinh vương trong cách cục ban đầu mới có thể dùng Mậu, nếu không sự khắc chế và tiết chế giao hòa sẽ không tốt. Hỏa vương dùng Nhâm Thủy hỗ trợ phản chiếu ánh sáng Hỏa. Nói tóm lại, Bính Hỏa tháng mười, lấy Giáp Mộc làm mát xích chính, còn Canh, Mậu, Nhâm tùy trường hợp tăng giảm là được.