Tháng hai, Ất Mộc ẩm thấp làm tổn thương Đinh Hỏa, không có Canh không thể trừ Ất, không có Giáp không thể dẫn Đinh.
Tháng hai, Mộc vượng Hỏa tắt, cần phải dùng Tài phá Ấn, Đinh Hỏa cần Giáp Mộc mới thành ngọn lửa có gốc Ất Mộc như cọng cỏ, làm Hỏa khó cháy bùng lên nên gọi là thấp Ất (Ât ẩm ướt), cần dùng Canh khử Ât. Dùng Giáp dẫn Đinh, cũng dùng Canh và Giáp mới có số mạng cao quý.
Canh và Giáp cùng xuất hiện trong Can, chắc chắn là mệnh khoa giáp; nếu Canh hiện, Giáp ẩn chỉ là mệnh Cống giám hoặc Sinh viên; nếu Giáp hiện, Canh ẩn, là mệnh công danh Dị đồ; nếu Bát tự có Canh không có Giáp, là mệnh Năng sĩ thanh nhã; Bát tự có Giáp không có Canh,là kẻ tầm thường; nếu Bát tự có An vượng, Sát cao được đại quý.
Tháng hai, là lúc khí thế của Mậu mạnh nhất, khí tuy kiệt nhưng chưa suy, nên Thiên Ấn quá vượng, cần dùng Tài tổn Ấn; nếu như Giáp và Canh không thể cùng có, chẳng thà không có Giáp, nhưng không thể thiếu Canh được; nếu Bát tự có An vượng, Sát cao, vào tháng hai, Ất Mộc đương quyền, nên Chính Ấn của Nguyệt lệnh có Thát Sát xuất Can, mệnh mạnh Sát yếu, Sát giả nắm quyền, Tài, Quan, Ản tam kỳ hợp thành cách cục thuộc mệnh đại quý.
Nếu Bát tự có Canh và Ân đều xuất hiện trong Can, Canh ắt thua thiệt Ât, nên khó tránh Tham hợp; nếu vận khí lại ở nơi quê hương Kim Thủy, là người bần hàn; hoặc nếu Canh hiện, Ất ẩn, không thể Tham hợp, Canh luôn có cái thể hại Ất, Ât Mộc không làm thương tổn Đinh, còn dẫn hóa ngọn lửa Đinh Hỏa; nếu dùng Ât không tai hại, vận số ở nơi nhà của Mộc Hỏa đương nhiên phú quý thanh nhã; nếu không ứng nghiệm chỉ vì có phong thổ xấu; nếu lấy Ất làm Dụng thần, Thủy là vợ, Mộc là con.
Nếu không có Giáp, lại có Ất xuất hiện trong Can, Ât ắt bị Canh hóa hợp, sức mạnh của Đinh Hỏa, không thể khắc chế Canh, ngược lại còn bị vì tham Tài làm hư Ấn, Tài vượng mệnh yếu, nếu lại thêm Tài Sát, chắc chắn là số nghèo khổ; nếu Canh hiện Ất ẩn, Tài và Ân không cản trở nhau, tức có thể lấy Ất làm Dụng thần vận số ở cung nhà của Mộc và Hỏa, đương nhiên phú quý, đây là ý nghĩa của việc bỏ Tài vượng, dùng Ấn, do Đinh Hỏa cần có Giáp Mộc giúp dẫn hóa, Mộc Hỏa rực rỡ mới có thể khắc chế Canh Kim; nếu không có Giáp sức mạnh của Đinh Hỏa không đủ khắc chế Canh Kim; nếu Ất ẩn mà Canh lộ, không cần có Giáp, cũng có thể dẫn sinh Đinh Hỏa.
Nếu Bát tự chỉ toàn Ất Mộc, không có một Giáp Mộc nào, người số này có phú quý nhưng không bền, sẽ vì tham lam gây tai họa, khéo quá hóa vụng, lại không thể thừa kế sự nghiệp của tổ tiên; Nếu có Bát tự có Ất không có Canh, là số kẻ nghèo khổ, không nơi nương tựa.
Ất Mộc tính chất âm nhu, được ví như huệ mộc nhược thảo (cây kiểng, cỏ yếu), dễ bị lửa đốt cháy trong chốc lát nên Hỏa khó rực sáng được lâu, Đinh Hỏa cần dựa vào Giáp Mộc, mới đúng Hỏa có ngọn (tức cháy bùng lên), có thể cháy lâu; nếu không có Giáp, phú quý không lâu bền: nếu không có Canh trừ Ât, nghèo khổ, không nơi nương tựa, vì Åt và Đinh đều suy kiệt.
Nếu Bát tự toàn Quý Thủy, không có Mậu hay Kỷ khắc chế, là cách cục của số mệnh nghèo khổ; nếu Bát tự Ât ít, Quý nhiều, lại có Thổ khắc chế, là mệnh Dị đồ hiển đạt; nếu lấy Thổ làm Dụng thần, Hỏa là vợ, Thổ là con. Bát tự toàn Quý Thủy, tức Sát vượng, Nguyệt lệnh lúc này lại có Thiên Ân, Đinh Hỏa có chỗ dựa nên không có gì lo lắng, nên có thể dùng Mậu hay Kỷ khắc chế Sát; nếu Thất Sát không có gì khắc chế ắt là mệnh nghèo khổ; nếu Bát tự có Nhâm hợp Đinh, giống trường hợp trong Đinh Hỏa tháng Giêng nên ở đây chỉ noi về Quý Thủy không bàn về Nhâm Thủy.
Nếu Bát tự có Chi hợp thành Hỏa cục, nếu có Canh xuất hiện trong Can lại là mệnh thanh quý, hòa nhã, hiển đạt; nếu trong Bát tự không có Canh, chỉ là mệnh tầm thường, lười biếng, gian trá, ở tầng dưới của xã hội.
Trên bàn về số mệnh mạnh lấy Tài làm Dụng thần, cần có Thực, Thương xuất Can làm giảm khí thế của Hỏa để sinh Tài, là cách cục thanh quý; nếu không có Canh Kim, không tạo thành cách cục viêm thượng giả, là Hạ cách (cách cục xấu).
Tóm lại, Đinh Hỏa tháng hai, thời điểm Át Mộc đương quyền, không thể không có Canh; nếu có Ất, không có Canh là số kẻ nghèo khổ không nơi nương tựa; nếu lấy
Canh làm Dụng thần, Thổ là vợ, Kim là con.
Đinh Hỏa tháng hai, Ất Mộc đang mạnh nên Thiên ấn rất vượng, nên Dụng thần chính là dùng Tài tổn Ấn. nhưng Chính An hay Thiên Ản, có cách dùng Tài khác nhau, nên phần trên chia thành Canh, Giáp và Canh, Ất để làm rõ ý nghĩa dùng Tài tổn Ấn.