Tháng tư, khí thế của Hỏa dần mạnh, nên cần dùng Giáp dẫn Định, phải có Canh Kim khắc chế Giáp, có Canh có Giáp mới được gọi là củi lửa cháy rực, nên coi Quý Thủy là bệnh.
Tháng tư thuộc cung Ty, Bính Hỏa ở vào đất Quan, Định Hỏa dựa vào uy của Bính Hỏa, nên sức nóng khó chống đỡ. Tính chất của Đinh Hỏa tuy là chiêu dung (nóng chảy) lúc này cũng tự nhiên mạnh lên; nếu thấy trong Bát tự có Bính Hỏa xuất Can, phải xem Đinh Hỏa giống như Bính Hỏa, vì vậy người ta hay nói Bính đoạt Đinh quang (Bính chiếm đoạt ánh sáng của Đinh). Nếu không có Bính không thể không có Giáp Mộc dẫn hóa Đinh, vì Đinh Hỏa có tính chất âm nhu lại đang ở vượng địa, nên khí của Đinh Hỏa không chính; nếu có Giáp, Bính sẽ chuyển thành Dương.
Nếu không có Quý ngầm ẩn, chỉ có Nhâm Thủy xuất Can khắc chế Bính Hỏa, Bính Hỏa không thể đoạt ánh sáng của Đinh Hỏa, số mệnh đương nhiên là Ngọc đường thanh quý, địa vị cực phẩm.
Trong tính chất của mười Can, Ất Mộc thích quấn lấy Giáp, Đinh Hỏa là Bính Hỏa đoạt ánh sáng của Đinh. Đế chứng lời này, ta thấy nếu Ất gặp Giáp, chỉ nói về kiểm ap không nói về Ất, Định thấy Bính, chỉ nói Bính không Đình, khí chỉ cái manh (Khí tòng sinh vượng), Bính Nhâm, Bính cùng xuất hiện ở Can, tự nhiên có sư cao quý của số người ngôi cao cực phấm.
Nếu có Canh, không có Giáp, lại có Mậu xuất hiện trong Thiên can, gọi là Thương Quan sinh Tài, mệnh gia. có ngàn vàng, trường hợp này lấy Mậu làm Dụng thần nếu Tứ trụ có nhiều Mậu, không có Giáp, Ất, lại không có Thủy là cách cục Thương Quan thương tận, có thể chỉ làm một Tú tài xuất sắc, người thanh cao, nhưng không giàu có cũng không được đại quý; nếu Bát tự có nhiều Ất Mộc, chỉ số tầm thường.
Tháng tư, Hỏa, Thổ, Kim cùng ở cung Nguyệt lệnh; nếu Canh, Mậu cùng xuất hiện ở Can, Thương Quan sinh Tài, thể và dụng đều cùng ở một cung, tức có sự biến đổi của cách cục, nhưng Mậu Thổ làm mờ tối ánh lửa nên không được quý. Canh Kim được trường sinh, có số mệnh cự phú; nếu Tứ trụ có nhiều Mậu sẽ tiết chế Đinh Hỏa thái quá, gặp Giáp dẫn hóa Đinh và phá Mậu, cần lấy Bội Ân làm Dụng thần, thấy Thủy nhuận, Thổ sinh Kim, cần lấy Canh Kim làm Dụng thần; nếu không có Giáp Mộc và Nhâm, Quý, gọi là cách cục Thương Quan thương tận. Thương Quan bị giảm mạnh khí thế, Đinh Hỏa lại bị Mậu Thổ che lấp mất ánh lửa, nên chỉ được số Tú tài, không thể đại quý.
Nếu Tứ trụ có Bính đoạt mất ánh sáng Đinh Hỏa, lại không có Nhâm hoặc Quý phá Bính, người số mệnh này nghèo khổ, không nơi nương tựa; nếu có Nhâm, Quý phá Bính, số mệnh không chỉ là Tú tài, có thể còn có uy quyền hiển dạt từ con đường Dị đồ.
Bính đoạt ánh sáng Đinh Hỏa, Đinh dựa vào uy thế của Bính, nếu chuyên dùng Nhâm Quý phá Bính, Đinh Hỏa không còn bị Bính che lấp sẽ mạnh dần, nên thuộc số mệnh Dị đồ hiển đạt; nếu không có Nhâm, Quý số mệnh mạnh nhưng thiếu chỗ dựa (tức Đinh Hỏa mạnh không thể không có Nhâm, Quý làm chỗ dựa, bị Bính Hỏa che lấp) nên số người nghèo khổ.
Nếu Bát tự năm Đinh, tháng Ty, ngày Đinh Ty, giờ Rinh Ngọ, trong Bát tự chỉ có một Bính sẽ khó đoạt hai Dinh, mệnh tuy không hiến đạt, nhưng cũng là số nổi tiếng; hoặc Bát tự là năm Giáp, tháng Ty, ngày Đinh, giờ Bính, gọi là cách cục Giáp dẫn Đinh quang (Giáp dẫn tới ánh sáng Đinh), mệnh Ngũ phúc Tam đa (Ngũ phúc gồm: Thọ (sống lâu), Phú (giàu có), Quý (cao quý), an lạc, nhiều con cháu; Tam đa gồm: đa phúc, đa thọ, đa tử tức [nhiều con]).
Nếu Bát tự là năm Đinh, tháng Ất Tỵ, ngày Đinh Tỵ, giờ Bính Ngọ, là một biến cách của cách cục viêm thượng, Đinh Hỏa thuộc Am can, ngọn lửa suy kiệt, không thể là viêm thượng, nhưng trong Bát tự có Bính xuất hiện nơi Nhật can, Đinh Hỏa dựa vào Bính, mạnh lên, tức vẫn là viêm thượng (lửa nóng bốc cao): trong cách cục viêm thượng không thể thiếu Giáp Mộc; nếu Bát tự năm Giáp, tháng Kỷ Tỵ, ngày Đinh, giờ Bính Ngọ, tức Bát tự này có Giáp Mộc xuất hiện ở Niên can, Đinh Hỏa có chỗ dựa nên sáng sủa lâu dài.
Tóm lại, nếu Đinh Hỏa gặp Giáp, Bính, khí chuyển thành Dương, lý lẽ giống như viêm thượng; nếu vận khí ở Đông Nam sẽ phú quý; nếu ở Tây Bắc, nghèo khổ; nếu viêm thượng đắc thời đắc địa đương nhiên là số nổi tiếng, ngũ phúc tam đa.
Nếu lấy Giáp làm Dung thần, Thủy là vợ, Mộc là con; heu lấy Canh làm Dung thần, Thổ là vợ, Kim là con.
Đinh Hỏa tháng tư, con đường đúng đắn nên dùng up, Canh làm Dụng thần, còn dùng Nhâm, Quý và cách cục viêm thương đều là biến cách.