Tháng năm, Đinh Hỏa nắm quyền, Tân Kim không chỗ dựa nên yếu ớt, âm nhu cực điểm, không thích hợp được tôi luyện, cần kiêm cả Kỷ vượng Nhâm làm Dụng thần, tại sao? Kỷ Thổ là đất cát, Nhâm Thủy là nước sông, nước biển, Kỷ Thổ không có Nhâm không ẩm ướt, Tân Kim không có Kỷ không được sinh ra, nên cần cùng lúc lấy Kỷ, Nhâm Dụng thần, nếu không có Nhâm, có thể lấy Quý Dụng thần nhưng công dụng của Quý kém hơn.
Bản chất Tân Kim nhu nhược, không thể không có Ấn (Thổ) vào tháng ba, tháng tư là lúc Mậu Thổ đang vượng, sợ Thổ nhiều vùi lấp Kim, nên kị dùng Thổ. Vào tháng năm, Kỷ Thổ không phải là Kị thần của Kim, nhưng vào giữa hè là lúc Hỏa đang vượng, Thổ khô nóng, không thể sinh Kim: cần kiêm cả Nhâm Thủy làm Dụng thần, dùng Nhâm giúp nhuận Thổ, để hoàn thành công dung phản sinh; còn nếu phải dùng Thủy để tiết chế Kim làn Kim đẹp thêm, không thể kiêm cả Nhâm, Thủy làm Dung thần (trường hợp muốn Kim, Thủy được trong trẻo, ki hi Kỷ Thổ vẩn đục, còn trường hợp muốn dùng để phản sinh (tức lấy Thủy nhuận Thổ để Thổ sưởi Kim) thì lợi dung Kỷ Thổ làm Thủy vẩn đục); nếu không có Nhâm, lấy Quý Dụng thần, nhưng tác dụng kém hơn.
Nếu Địa chi trong Bát tự biến thành Hỏa cục, dù có Tam Quý xuất Can cũng khó cứu lửa đang cháy nóng hừng hực, dù mệnh làm tới quan lớn vẫn chết không thành danh; nếu có Nhâm xuất hiện trong Can, lại kiêm có Quý phá Hỏa tuy là mệnh Cống giám, Sinh viên (xem chú thích) nhưng là người có tài lược lớn; nếu không có Nhâm phá Hỏa, lại có Quý Thủy xuất Can, có Mậu bị hóa hợp, dù trong cung Ngọ có Kỷ Thổ, cũng là cách cục "bùn khô hóa tro" (táo nê thành khôi), Tân Kim bị Hỏa nung tan chảy, nếu có một hai lớp Tỉ Kiên, không đến nỗi cô độc.
Trường hợp lấy Quý Thủy làm Dụng thần, sức yếu hơn dùng Nhâm Thủy, Địa chi hội cục lấy Tý, Ngọ, Mão, Dậu làm trung tâm. Tháng năm thuộc cung Ngọ, nếu Địa chi trong Bát tự có Dần, Tuất tức biến thành Hỏa cục, dù có nhiều Quý Thủy xuất Can phối hợp rất tốt, tuy làm quan lớn vẫn là số vô dụng, nhu nhược, không đủ cao quỹ; nhưng nếu Bát tự có Nhâm cứu giúp, tuy phối hợp không hoàn hảo, chỉ là số mệnh một Cống giám nhưng vẫn cơ tài thao lược; nếu Bát tự có Địa chi hợp thành Hỏa cục, trừ phi là Nhâm Thủy không gì có thể cứu được, mệnh Canh Kim có Hỏa vượng, không có Thủy dùng Thổ te chế Hỏa, nhưng Tân Kim yếu ớt, dù trong cung Ngọ tự cơ Kỷ Thổ nếu không tàn tật, yểu mệnh cũng là số tu hành, ăn mày, tôi tớ, đó là hiện tượng Hỏa vượng, Kim tan chảy. Nếu có một, hai lớp Tỉ Kiếp sẽ thành cách cục sinh hóa mà không phải sinh hóa, chẳng qua không đến nỗi cô độc lẻ loi mà thôi.
Tóm lại, mệnh Tân Kim sinh tháng năm, Càn cùng lúc lấy ba can Nhâm, Quý, Kỷ làm Dụng thần, không thể thiếu một trong ba; nếu Bát tự có Nhâm, Kỷ xuất hiện trong Can, Địa chi có Quý tàng ẩn trong cung Tý không bị xung khắc, số mệnh khoa giáp, lại được quyền chức cao và quý hiển; dù Bát tự chỉ có Nhâm tàng ẩn Chi, còn Quý nằm trong Can, cũng là số mệnh Cống giám, Sinh viên; hoặc Bát tự không có Nhâm, chỉ có Ký, Quý cũng là mệnh công danh nhờ Dị đồ; hoặc nếu Bát tự có Quý, lại có Canh Kim được hưởng lộc Hoàng gia, tuy Dị đồ nhưng cũng hiển vinh; nếu Bát tự có Thổ nhiều, lại có Thủy, lấy Giáp làm Dụng thần, tốt lành.
Mệnh Tân Kim sinh tháng năm, nếu Bát tự có Nhâm, Kỷ cùng xuất hiện trong Can, Quý Thủy tàng ẩn nơi Địa chi là cách cục tối thượng. Vào tháng năm, cung Ngọ tự có Kỷ Thổ; nếu Bát tự có Nhâm, Quý đều là mệnh nhiều công danh, tuy sức mạnh của Quý Thủy yếu hơn, nhưng nếu được Canh Kim sinh trợ, nguồn nước cuồn cuộn không dứt, sức mạnh tự nhiên gia tăng, cũng được hiển đạt bằng con đường Dị đồ; nếu Bát tự có nhiều Thổ, cần thấy Thủy, mới có thể lấy Giáp làm Dụng thần phá Thổ, nếu không có Thủy, Mộc chỉ giúp Hỏa mạnh thêm, không thể chế phục Thổ ngược lại còn giúp sinh Thổ, cần chú ý chi tiết này.
Mệnh Canh Kim, Tân Kim sinh vào mùa hè, cần có Nhâm, Quý đắc địa; nếu Bát tự có nhiều Mộc, nhiều Hỏa, nhưng không thấy Kim, Thủy nếu lại gặp vận Kim, Thủy át thất bại.
Tổng luận về nguyên lý mệnh Canh Kim, Tân Ki. sinh vào mùa hè, hai Thiên can Nhâm, Quý phải đắc địa tức Nhâm, Quý ở trong các cung của Hợi, Tý, Sửu v mùa hạ, Thủy cũng ở cung Hưu, Tù, nếu không đắc đia bị Hỏa nung cạn, không thể lấy làm Dụng thần, nếu Bát có nhiều Mộc, nhiều Thổ nhưng không thấy có Kim, Thủ. tưởng như có thể tạo thành cách cục “Tòng sát" nhưng thực sự lúc này Kỷ Thổ trong cung Ngọ đắc lực, tuy Th khô nóng không thể sinh Kim, nhưng bản chất vẫn có tương sinh; “Tòng cách" vận trực thấy Căn, dù gặp trắc trở, nhưng mệnh Tân Kim sinh mùa hạ nếu có cách cục "Tòng sát", vận khí khó suy luận là “Tòng" vì vận khí thuộc Kim, Thủy. Thủy và Hỏa xung kích nhau, ắt mang lại tai họa bất trắc.