Tháng sáu, khí Tam phục sinh hàn, Kim đến cực điểm, ưu tiên lấy Đinh Hỏa làm Dụng thần, tiếp đến mới dùng Giáp Mộc.
Mệnh Canh Kim sinh trong tháng sáu, nếu trước ngày tiết Đại Thử tương tự như sinh trong tháng năm; sau ngày tiết Đại Thủ, Kim, Thủy dần mạnh lên; nếu Tứ trụ của Bát tự có nhiều Kim, Thủy, gọi là “Tam phục sinh hàn".
Vào ba tháng mùa Hạ, Thổ được Hỏa vượng tương sinh, nên Thổ trong các cung Thìn, Tuất, Sửu, Mùi bốn mùa, Thổ thuộc tháng Mùi (tháng sáu), vượng nhất, xin xem Tổng luận sẽ rõ hơn. Vào tháng sáu, Thổ vượng Kim cứng, cần ưu tiên dùng Đinh Hỏa, tiếp đến dùng Giáp Mộc, bản mệnh mạnh nên Hỷ thần là Tài, Quan; bản mệnh yếu Hỷ thần là Ấn; nhưng dù bản mệnh yếu hay mạnh cũng dùng Giáp Mộc khơi thông Thổ để hiển lộ được công dụng của Canh Kim.
Bát tự có Đinh, Giáp đều xuất hiện trong Can, số mệnh khoa giáp thanh hiển, nhưng kị có Quý Thủy làm tổn hại Đinh. Nếu Bát tự có Giáp, không có Đinh, là số mệnh tâm thường. Bát tự có Đinh không có Giáp, là số mệnh Tu tài; nếu Bát tự không có cả Đinh và Giáp, số mệnh hạ tiện vì vào tháng Mùi tuy tư có Đình Hỏa nhưng không xuất Can giống như không có; hoặc Bát tự không có Thủy, Đinh Hỏa cùng Mùi không bi phá, là mệnh kinh doanh cuộc sống sung túc, nhưng nếu Địa chi của Bát tự có Thủy nỗ chi mạt); nếu Bát tự không có Đinh Hỏa xuất Can, là số mệnh kẻ tùy tùng tôi tớ (kẻ cầm roi).
Vào tháng Mùi, Hỏa đã suy, tuy vẫn có vẻ hừng hực nhưng thực chất cung nỏ mạnh đã giương hết cỡ (cường nỗ chi mạt); nếu Bát tự không có Đinh Hỏa xuất Can, Giáp Mộc giúp dẫn Đinh không thể tôi luyện Canh Kim thành vật dụng nên cần có Đinh, Giáp cùng xuất hiện trong Can, mới có số mệnh cao quý.
Vào tháng Mùi (tháng sáu), Mộc ở vào cung Mộ, khí thế cũng đã suy kiệt, nên nếu Bát tự có Tài không có Quan (tức có Giáp Mộc không có Đinh Hỏa) chỉ là số dung tục hám lợi; nếu có Quan không có Tài (có Đinh không có Giáp) là số kẻ sĩ tài năng, ưu tú trong Nho lâm (Tú tài), đều không phải Thượng cách. Giải thích ý nghĩa trường hợp Bát tự không có Đinh, vào tháng Mùi (tháng sáu), tự có Đinh Hỏa, sao gọi là “không có Đinh"? Vì vào tháng Mùi, Kỷ Thổ đang vượng tiết chế, có cũng như không. tuy vậy không phải hoàn toàn vô dụng, chỉ do Tài và Quan (Mộc, Hỏa) đều ở thế suy kiệt, nên không đủ tạo ra mệnh cao quý, chẳng qua đủ ăn đủ mặc (sung túc). Cẩn lưu ý, Đinh Hỏa bất luận xuất hiện trong Can, hay chỉ tàng ấn ở Chi đều kị bị Quý gây thương tổn, đó là nguyên lý Dụng thần không thể bị tổn thương.
Trường hợp Bát tự có Địa chi tạo thành Thổ cục (ở đây chỉ trường hợp Địa chi toàn Thổ hoặc Địa chi có đây đủ cả “Thìn, Tuất, Sửu, Mùi thì ưu tiên lấy Giáp làm Dụng thần, sau mới dùng Đinh; nếu Bát tư có Giáp xuất hiện trong Can, là người văn chương hiển đạt có đủ phú quý.
Phần trước viết về trường hợp dùng Đinh làm Dụng thần, Giáp Mộc hỗ trợ, ở đây viết về trường hợp lấy Giáp làm Dụng thần, Đinh Hỏa hỗ trợ. Bát tư có Địa chi tạo thành Thổ cục cần có Giáp Mộc giúp khơi thông Thổ. Canh Kim mới hiển lộ được công dụng, nên lấy Giáp Mộc làm Dụng thần, Đinh Hỏa phò tá; Giáp Mộc cũng cần phải xuất Can mới có công dụng khơi thông Thổ.
Trường hợp Tứ trụ của Bát tự có nhiều Kim, nếu có hai Đình xuất Can chế phục, là mệnh Dị đồ hiển đạt; nếu Bát tự chỉ có một Đinh xuất Can chế phục, là mệnh số Đạo bút (xem chú thích ở đầu).
Lại nói về việc lấy Đinh làm Dụng thần. Sách nói: "Trùng Quan bất quý" (có hai Quan tức hai Đinh Hỏa mệnh không cao quý) nhưng không phải tất cả các trường hợp đều thế. Tháng sáu, Canh Kim dần mạnh lên (xem chú giải ở phần sau), nếu Tứ trụ thấy Tỉ Kiên (tức Tứ tru có Kim) không có hai Đinh xuất Can khắc chế, mệnh không thể cao quý; nếu có hai Đinh xuất Can khắc chế, số mệnh cao quý, tuy không theo đường chính ngạch (tức đi thi đậu rồi làm quan) nhưng cũng được hiển đạt; nếu Bát tự chỉ có một Đinh xuất Can khắc chế, lực lượng yếu hơn, nhưng cũng là mệnh Đao bút dương danh (xem chú thích) và cũng là mệnh Dị đồ (xem chú thích).
(Chú giải: Vào tháng Mùi (tháng sáu), Canh Kim mạnh dần lên, tức tháng bảy sẽ là Nguyệt lệnh, liền kề với tháng sáu, nên gọi tháng sáu là tháng 'Canh Kim tiến khí).
Chung kết, mệnh Canh Kim sinh trong tháng sáu, chuyên lấy Đinh Hỏa làm Dụng thần, Giáp Mộc làm phò tá.