Tháng mười, thời tiết Tiểu Dương, khí Dương mới tá khí lạnh chưa mạnh, ưu tiên lấy Nhâm Thủy Dụng thắn kế đến lấy Bính Hỏa làm Dụng thần, giúp sưởi ấm Nhan và Tân Kim.
Tân Kim thích Nhâm Thủy giúp tắm gội, sinh vào tháng mười, cần kiêm cả Bính Hỏa làm Dụng thẩn, do khí lạnh đang dần tăng, nếu Bát tự có Binh Hỏa, Thủy và Kim đều được ấm áp, có Nhâm Thủy gọi là “Kim bạch Thủy thanh" (Kim sạch trắng Thủy xanh trong), không tách rời việc lấy Nhâm, Bính làm Dụng thần, sách viết về "Kim Thủy Thương Quan" là viết về mệnh Kim mùa Đông. Nếu Bát tự có Nhâm, Bính đều xuất hiện trong Can, được số bảng vàng ghi tên, tại sao? Vì mệnh Tân Kim vào tháng Hợi (tháng mười) có Nhâm Thủy, Binh Hỏa, gọi là cách cục “Kim bạch Thủy thanh" chắc chắn là số mệnh khoa giáp phú quý, nếu Bát tự có Bính xuất hiện trong Can, còn Nhâm tàng ẩn nơi Địa chi, số mệnh Cống giám, Hương thân, nếu theo Dị đồ có thể được làm quan nổi tiếng. Nếu Bát tự có Bính tàng ẩn nơi Địa chi, còn Nhâm xuất hiện trong Can, là số mệnh phú nhiều quý ít, nếu Bát tự c0 Nhâm và Bính đều tàng ẩn nơi Địa chi, chẳng qua là số mệnh Tú sĩ.
Mệnh Tân Kim sinh tháng mười, Nhâm và Bính song hành làm Dụng thần, trong cung Hợi (tháng mười) Nham Thủy nắm quyền, Dụng thần đang vượng, chắc chắn số mệnh khoa giáp phú quý, Bính Hỏa cần thông Căn và không bị hóa hợp mới tốt.
Nếu Bát tự không có Bính, chỉ có Nhâm, Mậu là số mônh giàu có, nếu Tử trụ trong Bát tự có nhiều Nhâm, không có Mậu, là cách cục “Kim Thủy tràn lan" chắc chắn là số mệnh nghèo hèn. Nếu Bát tự có Mậu Thổ xuất Can để chế phục Nhâm Thủy đang nắm quyền chắc chắn số mệnh khoa giáp; nếu Mậu tàng ấn trong cung Dần, Tỵ ở Địa chi, cũng được số Tú tài.
Cách cục “Kim Thủy Thương Quan" thích có sự thuần nhất nên kị gặp Mậu Thổ, ở đây “Kim Thủy Thương Quan" lại lấy Mậu làm Dụng thần, là do Nhâm Thủy quá nhiều, Thủy vượng Kim bị chìm đắm, đó là “Biến cục" của cách cục “Kim Thủy Thương Quan" nên cần dùng Mậu Thổ cứu trợ, nhưng Mậu Thổ cần có Bính Hỏa sưởi ấm mới có thể chế phục Thủy đang nắm quyền, nếu Mậu xuất hiện trong thông Căn ở Dần, Tỵ được số quý hiển, nếu không có Bính chỉ được số giàu có, Kim Thủy đồng tâm, xét theo toàn cục suy luận như trường hợp Nhâm Thủy có Ấn, lấy Tài, Quan làm Dụng thần, khác với trường hợp Nhâm, Bính cùng lúc làm Dụng thần ở trên.
Bát tự có nhiều Giáp, ít Mậu là số mệnh giàu có nhờ ngành nghệ thuật, nếu Bát tự có nhiều Kỷ lại có Nhâm, Mậu, Nhâm Thủy bị Thổ vây khốn, Tân Kim bị vùi lấp nên số mệnh nghèo khó, tuy theo ngành nghệ thuật và dược trọng dụng suốt đời, nếu Bát tự có hóa hợp, sẽ trở thành phú ông.
Về ý nghĩa trường hợp không có Bính chỉ có Nhâm, nếu Bát tự có trên Giáp, Mậu Thổ không thể ngăn chặn Thủy, chỉ có thể chuyên lấy Tài tinh (Mộc) làm Dụng thần, vì nếu lấy cách cục “Kim Thủy Thương Quan" kị có Mậu, Kỷ làm tắt nghên, vẩn đục Thủy, nếu không dùng cách cục Thương Quan không cần kị, lúc này Tân Kim đang ở cung Hưu, Tù, Thổ ít có thể sinh Kim, Thổ dày vùi lấn. Kim, Tân Kim được sinh phù (có Ngũ hành nâng đỡ sinh Kim) có thể lấy Tài làm Dụng thần, mệnh sẽ được giàu có, nhưng Thổ che ánh sáng Kim, suốt đời chỉ có theo theo ngành nghệ thuật, nhiều Kỷ tức Địa chi thấy có Sửu, Mùi Mậu Thổ có Sửu, Mùi làm Căn (gốc) có thể làm tắt nghẽn Nhâm Thủy và chôn vùi Tân Kim, nên cả đời nghèo khổ, nếu có Giáp nhưng không hóa hợp, Tài vượng phá Ấn, tạo thành Phú cách (cách cục giàu có).
Bát tự có quá nhiều Nhâm, Quý, không có Mậu Thổ chế phục Thủy, Bính Hỏa sưởi ấm Kim là số người vất vả bốn ba.
Trường hợp Bát tự có nhiều Nhâm, Quý cần lấy Bính, Mậu làm Dụng thần, nếu không có Bính lấy Giáp Mộc tức Tài tinh làm Dụng thần, chỉ được phú không quý.
Tóm lại, mệnh Tân Kim sinh tháng mười, trước dùng Nhâm sau dùng Bính, hoặc trước dùng Bính sau dùng Kỷ cần cân nhắc cẩn thận kỹ lưỡng.
Mệnh Tân Kim sinh tháng mười, lấy Nhâm và Bính làm Dụng thần là chính, trường hợp trước dùng Bính sau dùng Kỷ chỉ áp dụng khi Nhâm Thủy quá vượng, Tân Kim bị tiết chế yếu đi.