Tháng chạp, trời rét, nước đông cứng, trước dùng Bính, sau dùng Nhâm, không có Bính không thể giải đông, nước được giải đông hết đóng thành băng, mới có thể lấy Nhâm Dụng thần để tắm gội Tân Kim.
Mệnh Tân Kim sinh vào mùa Đông, không tách rời Việc lấy Bính, Nhâm làm Dụng thần, giống mệnh Tân Kim sinh vào tháng mười một, thời tiết quá lạnh, ưu tiên dùng Binh, nhưng Binh, Tân không tương hợp mới có công dụng giải đông.
Nếu Bát tự có Bính, Nhâm cùng xuất hiện trong Can là mệnh người thanh nhã, phú quý, có tài năng làm cột triều đình, hoặc Nhâm và Bính có một năm trong Can một tàng ẩn nơi Địa chi, cũng là mệnh Công giám, Y khâm. hoặc nếu Bát tư có Bính, không có Nhâm là mệnh n thật quý giả; nếu Bát tự có Nhâm, không có Bính, là mệnh đi tu, cô độc, nghèo khổ; nếu Bát tự có nhiều Bính không có Nhâm, lại có Quý, số là kẻ tầm thường nhưng có tài năng, số người buôn bán chợ búa.
Mệnh Tân Kim sinh tháng chạp, cần kíp phải điể hòa khí hậu, nên Bính là Dụng thần chủ yếu, Nhâm Thủy là khí của Thời lệnh, nên có thể không có Nhâm trong Bát tự, nhưng không thể thiếu Bính, Bính xuất hiện trong Can hay tàng ẩn Chi, ảnh hưởng đến mức đô phú quý và địa vị của mệnh chủ, có Bính khí được ấm, nên phú thật, không có Nhâm, Tân Kim không sáng đẹp, nên quý giả, nếu Bát tự có Nhâm, không có Bính, mệnh Kim lạnh lẽo không sức sống, ít công dụng; nếu Bát tự có nhiều Bính, không có Nhâm lại có Quý, cần chú ý Bính nhiều thông Căn (gốc) tuy bị Quý vây khốn nhưng Bính vẫn sưởi ấm làm thời tiết ấm áp, là có tài năng, nhưng do Quý vẫn vây khốn Bính, nên bị chìm đắm nơi chợ búa.
Bát tự có Bính, Đinh cần lấy Quý, Kỷ làm vua, Bính, Đinh làm tôi, cũng là mệnh sung túc dư dả, cả đời an lạc.
Trong cung Sửu (tháng chạp), tàng ẩn ba vị thần Kỳ: Quý, Tân, cần kíp trong màu đông là việc điều hòa khi hậu, ưu tiên dùng Bính Hỏa, nếu Hỏa Thổ trùng phùng (tức Bính Hỏa gặp Đinh Hỏa, Mậu Thổ gặp Kỷ Thổ) không cần phải điều hòa khí hậu, chỉ cần Kỷ, Quý xuất Can, Thực Thần bội Ân, đồng cung tụ khí, nhưng vẫn không thể thiếu Bính, Đinh. 392