Mệnh Kỷ Thổ sinh tháng hai, lúc khí Dương dần tăng, tuy chưa thành Hòa Giá (lúa gạo, ngũ cốc) vạn vật cũng đã sinh trưởng, phát trien, nhưng ruộng vườn chưa dàn trải, ưu tiên lấy Giáp Mộc giúp khơi thông, nhưng kị tương hợp, tiếp dến dùng Quý Thủy giúp nhuận Thổ.
Tháng hai vào giữa Xuân, khí Dương dan thinh, Binh Hỏa không còn cần thiết. Trước tiên dùng Giáp, sau dùng Quý, lấy Tài, Quan làm Dung thần chính, nếu có thêm Binh tức Ấn phối hợp, phúc trạch càng dày, “Gia Hoa" tức ví dụ với Ät Mộc. Tháng Mão (tháng hai) tuy lúc Ất Mộc đang vượng, vẫn chưa thể lấy Át làm Dụng thần, cũng như hình ảnh lúa gạo ngũ cốc chưa chín hån, nhưng Giáp Mộc xuất hiện trong Can kị tương hợp với Kỷ Thổ. Vào giữa Xuân, lúc Mộc vượng nắm quyền, Giáp Mộc chắc chắn không thể “Tòng hóa" nếu tòng hóa không thành, mất cả công dụng khơi thông Thổ sẽ trở thành hạ cách.
Bát tự có Giáp, Quý xuất hiện Can, số mệnh khoa giáp nếu có thêm một Bính Hỏa, số mệnh quan cao cực phẩm, quyền vượt mọi người; nếu thấy có Nhâm Thủy cũng số mệnh phú quý, nhưng kém hơn một bậc; hoặc Bát tự thấy có Canh khắc chế Giáp, lại có nhiều Nhâm Thủy, Mậu Thổ, là số mệnh tầm thường; nếu được Bính xuất hiện trong Can, được tiểu phú (ít nhiều giàu có); nếu Bính tàng ẩn nơi Địa chi, đủ ăn đů mặc; nếu không có Bính số mệnh nghèo khó.
Kỷ Thổ sinh vượng, lấy Quý, Giáp tức Tài, Quan làm Dụng thần, cách cục cao quý; nếu có thêm Bính tức Ấn phối hợp, lộc trọng quyền cao, còn Nhâm Thủy sinh Giáp Mộc nhưng vô tình, nên phú quý kém hơn một bậc. Nếu thấy Canh Kim khắc chế thương tổn Quan tinh, Dụng thần bị tổn hại, hoặc Nhâm Thủy nhiều, vây khốn Bính, Mậu Thổ mạnh, vây khốn Quý, đều là các trường hợp có bệnh không thuốc trị nên số mệnh tầm thường; nếu có Bính Hỏa thì chỉ đủ ăn đủ mặc.
Hoặc Bát tự có Địa chi hợp thành Mộc cục, nếu có Canh xuất hiện trong Can, số mệnh phú quý; nếu Tứ trụ trong Bát tự có nhiều Ất Mộc, Åt lại xuất hiện trong Can. Canh Kim hóa hợp với Ất Mộc, không thể quét trừ tà khí trở về đường chính, đấy là số mệnh gian trá, nếu có vận đông Nam, không chết cũng làm việc bất lương, cần có Đinh làm Dụng thần để tiết chế, nếu có Đinh, số mệnh tiểu nhân nhưng không đến nỗi là kẻ bất lương.
Bát tự thấy có Canh khắc chế Giáp, số mệnh tẩm thường; Bát tự có Địa chi hợp thành Mộc cục, tạo nên cách cục “Quan Sát Hội đảng" nên có Canh Kim khắc chế mới là thượng cách; nếu Ất Mộc xuất hiện trong Can, Canh Ất tương hợp hữu tình, giống như quan binh thông đồng với trộm cướp, nếu thêm có vận Đông Nam tức vận ở đất Mộc Hỏa, cũng giống như việc đi vào vùng giặc cướp, làm sao an ổn cho được? Trường hợp này cần có Đinh Hỏa tiết chế. Tiết chế khí thế Mộc giúp sinh Kỷ Thổ, không lấy Canh Kim làm Dụng thần, mới không đến nỗi rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan; nếu không có Tỉ, Ân suy luận theo cách cục “Tòng sát" số mệnh đại quý.
Vào tháng hai, Mộc vượng nắm quyền, Địa chi có Hợi, Mão, Mùi hợp thành Mộc cục, hoặc có đủ Ngũ hành ở phương đông, gồm Dần, Mão, Thìn không có Tỉ, Ấn suy luận theo cách cục “Tòng sát". Nếu Bát tự có Giáp Mộc nằm trong Can, “Thê tòng phu hóa tòng Mộc" (vợ theo chồng hóa hợp ở cung Mộc) cũng luận theo cách cục “Tòng sát".
Nếu Tứ trụ trong Bát tự không có Giáp, Quý, Bính là hạ cách, ngôi vợ con, Dụng thần như trước (lấy Ngũ hành của Dụng thần chỉ ngôi con, Ngũ hành sinh ra Dụng thân chỉ ngôi vợ). Mệnh Kỷ Thổ sinh tháng hai, không thể thiếu Giáp, Quý, Bính, ngôi vợ con, Dụng thần như trước, tức giống như mệnh Kỷ Thổ sinh tháng Giêng.