Tháng ba là lúc Mậu Thổ nắm quyền, nếu Bát tự không Giáp, Quý, Binh là số nghèo hèn vô dụng; nếu Bát tự có Quý nằm trong Can, số mệnh khoa giáp; nếu Bát tự có Binh nằm trong Can, mệnh Lẫm cống, Y khâm; nếu Bát tự có Binh nằm trong Can, Giáp tàng ẩn nơi Địa chi, không có Quý Thủy, số mệnh giàu có, nếu có Quý Thủy, số Dị đồ hiển đạt.
Tổng luận về mệnh Mậu Thổ sinh tháng ba.
Thổ vượng nắm quyền, trước tiên dùng Giáp Mộc, lấy Quý Thủy trợ giúp, Thượng cách nên lấy Tài sinh Sát, cách cục lấy Ân hóa Sát kém hơn một bậc. Trường hợp Bát tự có Quý nằm trong Can, tức có Giáp xuất hiện trong Can, Quý Thủy trợ giúp, còn Bính nằm trong Can, tức trường hợp có Giáp xuất hiện trong Can, Bính Hỏa trợ giúp, nên Bát tự có Bính nằm trong Can, Giáp tàng ẩn hơi Địa chi, không có Quý Thủy chỉ là số mệnh giàu có nhưng không cao quý; nếu Bát tự có Quý tức có Tài bổ trợ cho Sát yếu, là mệnh “Phú trung thủ quý" (khi giàu có rồi mới mong cao quý).
Nếu Bát tự có nhiều Bính không có Quý cũng như ruộng khô không thể gieo giống, mệnh trước giàu sau nghèo. Nếu Bát tự nhiều Hỏa, có Nhâm nằm trong Can, a mệnh trước nghèo sau giàu; nếu Bát tự có Quý nằm Cong Can, trước nghèo hèn sau sang quý, nếu Bát tự có mam tàng ẩn nơi Địa chi, có Y lộc, chẳng qua chỉ đủ ăn đủ mặc. Nếu Bát tự có Quý tàng ấn nơi Địa chi, mệnh có. tài, nối tiếng nhưng không có thành đạt; nếu Bát tư có Nhâm, Quý đều tàng ẩn nơi Địa chi, cả đời sung túc, nhưng cần đúng vận tốt; hoặc Bát tự có Địa chi hợp thành Hồa cục, có Quý nằm trong Can, mệnh phú quý vô cùng, nhưng nếu Nhâm nằm trong Can, khó được phú quý. Nguyên nhân vì Quý là nước Cam lồ của trời, nên tự nhiên là phú. quý, còn Nhâm là nước sông hồ, miễn cưỡng mới được phú quý; vì vậy mới có khác biệt giữa hai số mệnh; nếu có Quý vừa nhàn hạ vừa phú quý; nếu có Nhâm, cực nhọc mới phú quý.
Trên đây luận về trường hợp Bát tự có Ấn nhiều lấy Tài làm Dụng thần phá Ấn, mệnh Mậu Thổ sinh tháng ba, nếu Bát tự có Bính không có Quý cũng như ruộng đất bị hạn hán, mệnh trước tốt sau xấu, giống như mệnh Mậu Thổ sinh tháng giêng, tháng hai. Cả Nhâm và Quý đều có thể giúp thấm nhuần Thổ nhưng Dụng thần khác nhau; nếu lấy Nhâm Dụng thần được giàu có, lấy Quý Thủy Dụng thần được cao quý; nếu Bát tự Nhâm, Quý tàng ẩn nơi Địa chi, phải có vận may dẫn xuất, mới mong phú quý, cần có vận tốt tức số mệnh có khiếm khuyết cần nhờ vận số trợ giúp.
Tiếp theo xin bàn về trường hợp lấy Nhâm, Quý Dụng thần mà số mệnh cực nhọc hay nhàn hạ phú quý, vì Quý Thủy là mưa móc, có công dụng thấm nhuần của thiên nhiên, nên số mệnh nhàn hạ cũng được phú quý; còn Nhâm Thủy là nước sông hồ muốn tưới nhuận Thổ phải dùng sức người dẫn thủy, số mệnh cực nhọc mới được phú quy, do sự khác biệt về tính chất của Nhâm và Quý vậy.
Trường hợp Bát tự có nhiều Bính, không có Quý, số mệnh chỉ có phúc ấm tổ tiên, không có phúc trạch, nên mệnh trước phú quý, sau nghèo hèn, Hỏa nhiều có Nhâm,
Quý cứu giúp tức Ấn là Bệnh thần, còn Tài là thuốc quý, có bệnh gặp thuốc tức số mệnh trước nghèo hèn sau phú quý. Nguyên lý là thế, không nên câu chấp cứng nhác, cần nên xem xét Hỷ thần, Dụng thần nằm ở Niên can hay Thời can (năm sinh hay giờ sinh) mới quyết định dược; ngoài ra, cũng cần xem vận số sớm hay muộn, vận tốt hay xấu nữa. Nếu Mậu, Quý tương hợp, tình cảm của Tài hướng về Nhật chủ, khí thế chuyên thuộc về Nhật chủ, dương nhiên được an nhàn phú quý, còn Nhâm gặp Mậu vô tình, nên bị Ngã (Nhật nguyên) khắc chế không thể trở thành Dụng thần nên gian nan mới phú quý. Trong sách co lấy Chính Tài là tài lộc của bản thân, Thiên Tài là tài lộc của người, cũng là ý nghĩa ấy. Trên dây luận về trường hợp Ấn nhiều lấy Tài Dụng thần, trường hợp nếu Tài nhiều, lấy Kiếp Ấn làm Dụng thần, hãy theo cách trên suy luận.
Trường hợp Bát tự có Địa chi hợp thành Mộc cục, lại có Giáp, Ất xuất Can, cách cục gọi là "Quan Sát Hội dảng", Quan Sát không có có ý di hoặc ở; nếu Bát tự có một Canh xuất hiện trong Can, giải trừ Quan Sát ắt được ít nhiều phú quý; nếu Bát tự không có Canh là số mệnh ít lộc, tuy có thể tích lũy tài nhưng gặp nhiều tai họa, thát bại, không thể gánh vác được tài lộc, nên lấy Hỏa Dụng thần tiết chế Mộc khí. Như Bát tự gồm: “Đinh Mão, Qúy Mão, Mậu Dần, Ất Mão" là Bát tự mà Quan và Sát không có có ý đi hoặc ở (xem bảng ở sau) may có Đinh Hỏa xuất hiện trong Can, cộng thêm có Mậu, Quý hóa hợp sinh Hỏa, ngầm thiêu cháy Giáp Mộc, nên lại số mệnh Võ khoa Thám Hoa.
Dưới đây bàn về việc lấy Quan, Sát làm Dụng thần
Nếu Bát tự có cả Quan và Sát, chỉ luận Sát, không có luận Quan, nên bảo Quan, Sát không có ý đi hay ở. Mệnh Mậu Thổ nếu Bát tự có Giáp Mộc là tốt, cả bốn mùa đều thế, Ất Mộc tức Quan tinh không đủ sức khơi thông Thổ, chỉ làm cách cục hỗn tạp mà thôi. Nếu Quan, Sát hỗn tạap, Bát tự dù có Canh Kim cũng không có nhiều phú quý; nếu Bát tự không có Canh, số mệnh không được cao quý. Quan, Sát tuy có thể khắc chế Kiếp, bảo vệ Tài, nhưng Quan, Sát không có có Ngũ hành nào chế phục, mệnh ắt gặp tai họa. Thìn (tháng ba) là kho cũng Tài (Tài khố) nhưng nếu Thổ mạnh đoạt Tài, nên tuy có thể tụ tài lộc nhưng dễ có tai họa, Quan Sát nhiều, nhưng không có gì chế phục chỉ còn cách lấy Ân (Hỏa) làm Dụng thần để tiết chế. Như Bát tự Đinh Mùi nói trên, khí thế của Quý Thủy bị Mộc tiết chế, Quan Sát vượng không có Ngũ hành khắc chế, nên phải lấy Đinh Hỏa tiết chế Mộc khí, Quý tương hợp với Mậu, để không có tổn thương Đinh Hỏa phải hóa hợp thành Hỏa, Hỏa và Thổ quá khô nóng, nên số mệnh cao quý nếu theo nghiệp võ (vận số tới đất Kim Thủy ban mệnh phát đạt, nhưng nếu vẫn lấy Quý Thủy làm Dụng thần, dễ bị thương vậy).
Bát tự nhiều Mộc, không có Tỉ, Ấn luận theo cách cục "Tòng Sát" là số mệnh đại phú quý; nếu Bát tự có Tỉ, Ấn lại cần có Quý Thủy ở Nguyệt can và Thời can mới có cách cục cao quý; nếu có Quý không có Hỏa, không có Bát tự nhiều Mộc, không có Tỉ, Ân luận theo cách cục öm, cách cục có tên là “Mộc Thổ tự chiến" là mệnh có anh trong gan ruột, u sâu gian khổ, rốt cuộc không có ích lợi gì.
Tứ trụ của Bát tự không có Ti, Ấn luận theo cách cục Tòng Sát" vì mùa Xuân Mộc là chủ Thổ là khách (Ký ương: Thổ nhờ Mộc mới mạnh) khách tuy mạnh nhưng không thể đuổi chủ nhà; nếu Địa chi hợp thành Phương cuc cũng luận theo “Tòng cách". Nhưng tháng ba Thổ đang vượng nắm quyền, không có dễ tạo thành cách cục “Tòng Sáť" nên cân nhắc khi suy đoán. Nếu Nhật nguyên có Tỉ, Ấn nâng đỡ, Hỏa Thổ quá khô nóng, cần chuyên lấy Quý Thủy làm Dụng thần để tạo thành “Quý cách" (xin xem phần viết về trường hợp Bát tự nhiều Bính, không có Quý). Mệnh Mậu Thổ sinh trong màu Xuân không có Giáp, Quý, Binh làm Dụng thần, cách cục gọi là “Thổ Mộc tự chiến" bản mệnh yếu dễ bị tàn tật, bản mệnh mạnh cũng chỉ là người vô dụng.
Bát tự lấy Giáp làm Dụng thần, Thủy là vợ, Mộc là con, con cái hiếu thảo; nếu Bát tự lấy Bính làm Dụng thần, Mộc là vợ, Hỏa là con, vợ hiền thục.