Mệnh Mậu Thổ sinh tháng tám, Kim tiết chế Thổ bản mệnh lạnh lẽo, cần nhờ Bính sưởi ấm, thích được Thủy thấm nhuần, nên trước tiên dùng Bính, sau dùng Quý, không có cần Mộc giúp khơi thông.
Vào tháng tám, Kim thần nắm quyền, con mạnh mẹ suy, khí thế bi tiết chế nên trở thành lạnh lẽo, cần có mặt trời mùa Thu sưởi ấm, nhưng Thổ khô nóng không có sức sống, cần có mưa móc thấm nhuần, nên cách lấy Dụng thần của mệnh Mậu Thổ sinh tháng tám, trước tiên dùng Bính, sau dùng Quý, trong Nguyệt lệnh đã có Kim đang vượng giúp tiết chế làm Thổ tốt đẹp hơn nên không có cần lấy Giáp khơi thông.
Bát tự có Bính, Quý nằm trong Can, là số mệnh khoa giáp; Bát tự có Bính nằm trong Can, Quý tàng ẩn nơi Địa chi, là số mệnh “phú trung thủ quý"; nếu Bát tự có Quý nằm trong Can, không có Bính chẳng qua số kẻ có tài; nếu Bát tự có Bính tàng ẩn nơi Địa chi, không nằm trong Can, lại không có Quý Thủy, hoặc Bát tự Quý Thủy nhiều không nằm trong Can, lại không có Bính Hỏa, cả hai trường hợp đều là số mệnh tầm thường; nếu Bát tự không co Binh và Quý số mệnh vô dụng.
Mệnh Mậu Thổ sinh tháng tám, Bát tự Tân Kim không nằm trong Can, lại cùng lúc lấy Tài Ấn làm Dụng thân la chính, Nguyệt lệnh Thương quý sinh Tài, Mậu Thổ khi hàn, cần Bội Ân làm Dụng thần, Bính và Quý thiếu một đều không có đúng Thượng cách.
Tứ trụ trong Bát tự đều là Tân, không có Bính, Đinh, cách cục này tên gọi “Thổ, Kim Thương Quan" số mệnh thông minh, nhã nhặn, nếu công danh không lợi về nghiệp văn, nhất định lợi về nghiệp võ, nếu thấy có Quý Thủy trong Bát tự, mệnh phú quý vẹn toàn.
Ở trường hợp Bát tự, trừ phi có Kim xuất Can không nên có Bính, Đinh cùng năm trong Can, nếu không có Dung thần sẽ bị trói buộc, tổn hại, xuất hiện trong Can không phải số mệnh không có lửa Hỏa mới cao quý (tức vẫn cần có Hỏa) nhưng Bính, Đinh nên tàng ẩn nơi Địa chi, sưởi ấm trợ giúp Thổ, mà không làm thương tổn đến Dụng thần mới là Thượng cách; nếu Bát tự có Quý Thủy xuất hiện trong Can không có làm thương tổn Bính, Đinh trong Địa chi, mệnh được phú quý vẹn toàn.
Bát tự có Địa chi hợp thành Thủy cục, Nhâm, Quý xuất hiện trong Can là cách cục Tài nhiều bản mệnh yếu, là mệnh chết đói trong lầu son, làm tôi tớ cho nhà giàu, ngu đần, nhu nhược, vô dụng, suốt đời nghèo hèn, nên Thiên can có Ti Kiếp phân tán Tài thần, ít nhiều có y lộc.
Trường hợp Bát tự có Tài nhiều, lấy Tỉ Kiếp làm Dụng thần, vào giữa Thu (tháng tám) Thổ bị Kim vượng tiết chế khí thế, tính chất Mậu Thổ vốn yếu, nếu Bát tự có Địa chi hợp thành Thủy cục, lại có Nhâm, Quý xuất hiện trong Can khí thế của Kim bị Thủy tiết chế sạch, tạo thành cách cục Tài nhiều bản mệnh yếu. Nói mệnh chết đói trong lẩu son, làm tôi tớ cho nhà giàu, có nghĩa là chỉ có thể quản lý tài sản cho người khác, nếu bản thân có được tài sản không thể gánh vác nổi, mà còn bị tiền tài làm cho khốn đốn; còn nói là kẻ ngu đần, nhu nhược, vô dụng, keo kiệt tức là mệnh Thổ bị tiết chế thái quá, tính tình trở nên thất thường; nếu Bát tự có Tài nhiều chỉ nên dùng Ti Kiếp, không thể lấy Ấn làm Dụng thần; nếu Bát tự có Tỉ Kiếp giúp phân tán Tài lại là cách cục của mệnh giàu có nhưng cần được vận may trợ giúp.
Thổ vào mùa Thu, khả năng giúp sinh Kim rất vả. Bát tự cần có Bính Hỏa, Đinh Hỏa xuất Can mới tốt: hoi nếu Bát tự có nhiều Tân không có Hỏa chế phục, là cách cục của mệnh sinh nhà thanh quý, Dụng thần và ngôi va con giống như các tháng trước.
Tổng kết, vào giữa Thu, Kim vượng tiết chế khí thế của Thổ, Mậu Thổ cực yếu, trừ phi có Bính, Đinh xuất. Can giúp sưởi ấm Thổ, nếu không Thổ không có sức sống nhưng Dụng thần là Bính, Đinh là Thương Quan không thể đoạt Kim; nếu Bát tự có Tân Kim xuất Can không nên có Bính, Đinh cùng nằm trong Can. Thời tiết vào giữa Thu vẫn chưa đúng lúc lạnh nhất; nếu Bát tự có Hỏa tàng ẩn nơi Địa chi, giúp sưởi ấm Thổ không khắc chế Kim, cùng tạo thành cách cục số mệnh thanh quý, Dụng thần và ngôi vợ, con giống trước, giống mệnh Mậu Thổ sinh tháng sáu.