Nguyên lý giống như “Cách Dụng thần mệnh Kỷ Thổ sinh tháng tư”
Mệnh Kỷ Thổ sinh vào mùa Hè lúc Ngũ cốc chưa thu hoạch gấp rút cần có mưa thấm nhuần, nên Quý Thủy là Dụng thần quan trọng, tiếp đến dùng Bính Hỏa. Mùa Hè nóng bức sao dùng Bính Hỏa làm Dụng thần? Vì mùa Hè nếu không có mặt trời, ngũ cốc không sinh trưởng, càng nóng bức, ngũ cốc càng phát triển, cho nên không có Quý, đồng ruộng khô hạn, không có Bính trời đất âm u.
Kỷ Thổ là đất có tính suy kiệt, khác với Mậu Thổ, sinh vào mùa hè, ưu tiên dùng Quý Thủy làm Dụng thân điều hòa khí hậu, nếu luân theo tính chất Kỷ Thổ là nên trợ, nên giúp, hình ảnh ẩn du đồng ruộng khô hạn, trời đất âm u là biểu hiện của mệnh Kỷ Thổ sinh vào mùa hÀ không thể tách rời Quý Thủy.
Bát tự nếu có Bính, Quý cùng xuất hiện trong Can lại có Tân Kim giúp khơi nguồn Quý Thủy, mệnh số phá quý cực phẩm, nếu Bát tự có Mậu xuất Can làm thương tổn Quý, che lấp Bính, không thể không lưu ý, hoặc Bát tư có nhiều Bính Hỏa, tạo thành cách cục Viêm thượng (lửa nóng bốc cao), Địa chi tàng ẩn Quý Thủy, lại thấy có Tân Kim giúp sinh Thủy gọi là cách cục Thủy Hoa cứu giúp lẫn nhau, chắc chắn mệnh số khoa giáp; hoặc Bát tư có Quý, không có Bính mệnh số cũng tốt, dù không mệnh khoa giáp cũng là người có tài cao được Tuyển bạt; nếu Bát tự có Bính, không có Quý, có Nhâm cũng được, chỉ không thành đạt lớn.
Mệnh Kỷ Thổ sinh tháng tư, cần kíp phải điều hòa khí hậu, nên cần lấy Quý Thủy làm Dụng thần chủ yếu, nhưng Thủy đến cung Ty, Ngọ rơi vào Tuyệt địa, nước ít bị nung cạn, cần phải có Tân Kim giúp sinh Thủy, nếu có Tân Kim, thủy có nguồn cuồn cuộn không dứt, lại có công dụng giúp nhuận Thổ. Tháng Tị và Ngọ trong Nguyệt lệnh tự có Bính, Đinh, nên Bát tự có Quý, không có Bính vẫn là mệnh số tốt, dù không số khoa giáp cũng chắc chắc Tuyển Bat, nếu không có Quý, nhưng có Nhâm cũng có thể lấy làm Dụng thần, không có Tân cũng có thể dùng Canh Kim, tuy cách cục cao thấp khác nhau nhưng công dụng như nhau, nếu Bát tự có Mậu xuất Can, không sợ Mậu thương tổn Quý, nên đề phòng Mậu hợp Quý hóa Hỏa. Phàm Bát tự lấy Quý làm Dung thần đều sợ có Mạu Thổ, không chỉ riêng mệnh Kỷ Thổ sinh tháng tư, nêu Mậu và Quý tương hợp, cách cục có chuyển biến thành họa hay phúc phải xem cách cục tao thành ra sao mới biết được.
Bát tự toàn Bính Hỏa, sức nóng hùng hực, nếu có thêm Định Hỏa khắc chế Kim, dù Bát tự có Quý Thủy vẫn là nước không có nguồn khô hạn như trường hợp mệnh Thổ sinh tháng bảy, tháng tám, mầm chồi khô héo tan rã, là mệnh số nghèo khố, cô độc, có con nhưng con đần độn. khó thành đạt, có của cải nhưng không giữ được bền lâu.
Bát tự toàn Bính Hỏa, sức nóng hừng hực, không có thủy không thể cứu, nhưng Nhâm, Quý không có nguồn, nước quá ít bị Hỏa nung cạn (Kim là nguồn của Thủy, không có Kim tương sinh, Thủy không có nguồn), tạo thành hiện tượng hạn hán, ruộng vườn khô cháy, không có sức nên mệnh số nghèo khổ, cô độc, Bát tự như vậy có Thủy làm Dụng thần nên Kim là vợ, thủy là con nước bị nung khô nên có con đần độn, khó thành đạt, Kim bị hỏa khắc nên có vợ cũng khó ở chung, Nhâm và Quý là Tài lộc của mệnh Thổ, nước không nguồn, có của cải nhưng khó giữ lâu dài, chắc chắn mệnh số, nghèo khổ cũng như trường hợp Bát tự Giáp Mộc xuất hiện trong Can dưới đây.
Bát tự có Giáp Mộc, lại thêm có Bính, Đinh trùng trùng, không có Thủy nào giải trừ sức nóng, sự khô héo cùng cực, mệnh số cả đời cô độc, nghèo khổ, dù Bát tự có Nhâm Thủy giúp giải trừ sức nóng nhưng không có Canh, Tân giúp sinh Thủy, Thủy bị Thổ khắc chế, không là số cô độc cũng bị bệnh ở mắt, tim và thận.
Nếu Bát tự có Canh, Tân giúp sinh Thủy lại là mệnh số phú quý, nếu mệnh Kỷ Thổ sinh tháng tư, Bát tự thấy có nhiều Mộc, Hỏa, không có Thủy giúp giải trừ sức nóng, tạo thành cách cục “Dương Nhẫn Đảo Qua", mệnh Kỷ Thổ tuy không có tai họa của cách cục “Dương Nhẫn" nhưng nêu Bát tự như vậy sự khô héo quá thiên lệch, cũng biểu hiện của số nghèo khổ, cô độc. Thủy bị Thổ khắc, Canh bị Đinh tổn hại, đều phạm vào cấm kị của cách cục. Nếu Bát tự có Canh, Tân giúp sinh Thủy lại là mệnh số phú quý như bệnh nặng có thuốc chữa, có sức mạnh xoay chuyển càn khôn nên không phải mệnh số tầm thường. Thủy tương trưng cho mắt, tim và thận có Ngũ hành thuộc Thủy, ná thủy bị nung cạn tức có mệnh ở mắt, tim và thận.