Mệnh Kỷ Thổ sinh vào mùa Thu, lúc vạn vật thu rút. vào trong, nội thục ngoại hư (trong chắc chắn ngoài trống rỗng), khí lạnh dần tăng, cần Bính Hỏa sưởi ấm, Quý Thủy thấm nhuận, không chỉ thế, Quý còn giúp tiết chế Kim, Bính khắc chế Kim, bổ trợ tinh thần của Thổ, vạn vật trong màu Thu cũng tươi tốt như trong mùa Xuân, mùa Hè.
Mùa thu Kim thần nắm quyền, con vượng mẹ suy, Thổ bị tiết chế yếu bớt, công dụng của Bính, Quý không chỉ giúp sưởi ấm, thấm nhuận Thổ, nếu như Bát tự có Kim hợp thành Phương cục, Canh, Tân xuất Can có Quý Thủy làm Dụng thần tiết chế khí thế của Kim, nếu có Bính, Đinh khắc chế Kim, bổ trợ Thổ tạo thành “Đại cách"; nếu lấy Giáp Mộc làm Dụng thần, cũng cần Bính, Quý bổ trợ vạn vật tươi tốt như sinh vào Xuân, Hạ nên mệnh Kỷ Thổ sinh vào mùa Thu không thể tách rời Bính, Quý.
Nếu Bát tự trước có Quý nằm trong Can, sau có Bính nằm trong Can tự nhiên có mệnh được ghi tên Nhạn tháp" quyền cao đứng đầu trăm quan, Bát tư có Nhâm, Bính nằm trong Can nhưng không có Quý là mệnh “Dị đồ hiển chức", hoặc nếu là quan võ, có quyền lớn trong tay, Bát tự có Bính Hỏa, không có Nhâm, Quý là kẻ nhã nhắn giả tạo, không thành thật, Bát tự có Nhâm, Quý, không có Bính mệnh năng sĩ một phương, cuộc sống sung túc, ít nhiều được giàu có nhưng không cao quý.
(1) Thời xưa tân khoa Trạng nguyên phải tới “Từ Ân tháp" để ghi lại tên họ.
Mệnh Kỷ Thổ sinh vào mùa Thu, Bát tự có Địa chi hợp thành Kim cục, không có Bính, Đinh xuất Can cứu giúp, mệnh số cô độc, nghèo khổ, nếu Bát tự có Bính, Đinh, nguyên thần là Kỷ là mệnh Ngũ phúc (xem chú thích) vẹn toàn, vô cùng phú quý, dù phong thổ bất cập (phong thủy xấu) cũng là mệnh số anh tài trong gia tộc danh giá, người hào kiệt trong quần hùng.
Tổng luận về mệnh Kỷ Thổ sinh tháng bảy, tám, chín có khác biệt với trường hợp Bát tự có Địa chi hợp thành Kim cục, Quý nằm trong Can tiết chế Kim ở trên, phần "Tổng luận" viết: “Mệnh Thổ có Kim Hỏa mới thành khí (vật có ích), mùa Thu, Kim vượng nắm quyền Kim mạnh gặp Hỏa, bị cưỡng chế vào khuôn khổ, sửa trị thành vật có ích, Bính và Đinh càng giúp bổ trợ nguyên thần của Thổ, thành cách cục “Thổ Kim Thương Quan Bội Ân", chưa hề thấy ai có cách cục này mà không có số mệnh Đại quý; đa số nếu theo nghiệp võ đều được cao quý. Do cách cục này phối hợp tự nhiên, chỉ một Hỏa mà có hai công dụng, trường hợp Bính Đinh xuất Can cứu giúp, do Kim mạnh tiết chế làm yếu Kỷ Thổ, không có Bính, Đinh không thành cách cục, Bát tự có Canh, Tân xuất hiện trong Can, Bính, Đinh tàng ẩn Địa chi cũng luận tương tự; phải lấy Kim mạnh, bản mệnh vượng là điều kiện quan trọng tạo thành cách cục, kị nhất Bát tự có Thủy, nếu có Thủy không những tiết chế Kim mà còn làm Thổ trôi dat, phá vỡ toàn bộ cách cục.
Tóm lại, mệnh Kỷ Thổ sinh vào mùa Thu, trước dùng Bính, sau dùng Quý, lấy Tân bổ trợ cho Quý, vào tháng chín, Thổ mạnh, nên dùng Giáp Mộc khơi thông, còn trong. các trường hợp khác nên cân nhắc khi luận đoán.
Mệnh Kỷ Thổ sinh mùa Thu, khí lạnh và bị tiết cho lấy Bính, Quý làm Dụng thần chính, nếu lấy Tài làm Dung thần không thể thiếu Ân, dùng Ấn không thể không thấm nhuận. Vào tháng chín Thổ mạnh, lấy Giáp Mộc tức Quan tinh làm Dụng thần. Quý và Bính hỗ trợ là cách thông thường nhất.
Mệnh Kỷ Thổ sinh mùa Thu, tính chất Thổ lạnh lẽo và khí thế bị tiết chế, lấy Bính, Quý làm Dụng thần chính. nếu lấy Tài làm Dụng thần không thể thiếu Ân, dùng Ấn không thể không thấm nhuận Thổ, vào tháng chín Thổ mạnh, lấy Giáp Mộc tức Quan tinh làm Dụng thần. Quý và Bính bổ trợ là cách thông thường luận đoán là vậy.
Mệnh Kỷ Thổ sinh trong ba tháng mùa Thu đều tương tự như nhau, cách xem xét từng tháng đều có thể dùng lẫn nhau, duy chỉ khác biệt về cách cục cao hay thấp mà thôi, bạn đọc nên lưu ý.
Mệnh Kỷ Thổ sinh tháng bảy, trong cung Thân Kim, Thủy trường sinh, lấy Bính Hỏa làm Dụng thần chủ yếu, Bát tự có Bính sưoi ấm Ký Thổ, Quý nằm trong Can là thượng cách, nếu Nhâm xuất hiện trong Can, cách cục kém một bậc, nếu Bát tự thiếu Thủy hoặc Hỏa khó được hiển đạt, đấy là Dụng thần của mệnh Kỷ Thổ sinh tháng bảy