Nhâm Thủy tháng bảy , ỷ có mẹ nắm quyền , biến yếu thành mạnh , chuyên dụng Mậu Thổ , tiếp đến dùng Định khắc chế Canh , nhưng nên dùng Thổ trong Thìn , Tuất không thể dùng Thổ mang bệnh trong cung Thân .
Canh Kim trong cung Thân thuộc Lâm quan , Canh là mẹ của Nhâm nên nói là ỷ có mẹ nắm quyền , Nhâm Thủy trường sinh nơi Thân , mẹ giàu con được nhờ , có cả thế và lực , tương tự như Bính Hỏa trong cung Dần , Nhâm Thủy có nơi khởi nguồn từ cung Thận , chảy trôi ngàn dặm chuyên lấy Mậu Thổ làm bờ đê . Tuy Mậu Thổ ký sinh ở hai cung Dần và Thân , nhưng Thổ cần có Hỏa mới phát huy cái dụng , trong cung Thân Thủy vượng nên Thổ trôi nổi , làm sao dùng làm đê điều , chỉ có cung Thìn hoặc Tuất vượng cho Mậu Thổ , Mậu trong cung Tuất , cao ráo dày dạn , tự nhiên có thể đưa nước chảy theo quy củ . Còn Thìn gặp Thân thành Thủy cục , khí thế của Thủy mạnh mẽ , tác dụng của Thổ sẽ yếu , nên cần suy xét lại , ngày tiết nhật Canh Kim quá vượng làm yếu đi khí thế của Mậu Thổ , nếu không có Định khắc chế Canh , Mậu trở thành vô dụng , nên phải lấy Đinh trợ giúp , nhưng Đinh hợp lại với Nhâm là bệnh , nên phải ngăn cách chúng mới tốt .
Mậu xuất hiện trong Thiên can , thêm cả Đinh cũng xuất hiện trong Thiên can là người có số khoa giáp hiển vinh hoặc Mậu xuất hiện trong Thiên can , Định ẩn nơi cùng Ngọ , Tuất thì người đó có số mệnh được Lẫm cống ( xem chú thích ) , Ấn phong ( xem chú thích ) . Nhưng kị gặp Quý Thủy , sợ rằng hóa hợp hoặc Địa chi có Dần , Tuất , Đinh Hỏa trong Thiên can không bị phá , là người số mệnh có tiếng tăm , hoặc nếu Bính , Mậu đều ẩn trong cung , là người từ giàu được sang .
Mậu , Đinh cùng xuất hiện trong Thiên can , là chính dụng của Nhâm Thủy tháng bảy , người có Đinh xuất hiện trong Thiên can , tức tháng Mậu Thân năm Đinh , nếu Địa chi Ngọ , Tuất hội thành cục lấp đầy Mậu Thổ , mệnh là hy vọng được ấn phong , nếu gặp Quý sẽ phá Đinh hợp với Mậu , mất đi cái dụng của đê điều nên rất kị , bất luận có hóa hợp hay không , còn nếu Địa chỉ có Dần , Tuất , Đinh Hỏa xuất hiện trong Thiên can tuy hợp thành Hỏa cục , nhưng Mậu trong cung Tuất , vẫn không mất đi cái dụng ; nếu cả Bính , Mậu đều ẩn trong Địa chi có Dần , Tỵ là người trong giàu lại có sang .
Hoặc nếu tứ trụ có nhiều Nhâm Mậu xuất hiện trong Thiên can , gọi là Sát hóa quyền , người tiên trong vườn ngọc . Người tiên , nên nếu Địa chi có Giáp , nhưng nếu Giáp nhiều lại trở thành kẻ tầm thường . Nếu có Canh trong cung Thân , cũng không đến nỗi thiếu ăn thiếu mặc , hoặc nếu nhiều Mậu xuất hiện trong Thiên can , có được một Giáp xuất hiện trong Thiên can để khắc chế cũng còn được ít nhiều phú quý , nếu không có Giáp cả đời nghèo khổ .
Bàn đến trường hợp dùng Mậu Thổ làm Thiên quan , chia làm hai đoạn trước tiên nói về trường hợp Nhâm nhiều Mậu ít , là Giả Sát hóa quyền , nếu Sát ít là Thiên quan , so với dùng chính quan càng quyền uy hơn . Nhưng tứ trụ không thể không có Tài để sinh , nếu nói có Canh ở cung Thân , có nghĩa là trong cung Thân có thể khắc chế Giáp Mộc , nếu ít Giáp không e ngại , nhưng nếu Giáp nhiều lại xuất hiện trong Thiên can , Canh trong cung Thân không đủ sức khống chế , Dụng và Thần của Mậu Thổ bị phá , không thể ngăn dòng nước chảy , nếu đổi dùng Giáp Mộc thực thần , tuy đủ ăn đủ mặc nhưng chỉ là người tầm thường . Còn trường hợp Mậu nhiều xuất hiện ở Thiên can , thân vượng sát cường , cần có Giáp Mộc khắc chế , đó là cách cục dùng Thực thần chế sát .
Hoặc chỉ có toàn Giáp Mộc , lại thấy có nhiều Tỉ không có Canh xuất hiện ở can , là kẻ có số mệnh tha hương đất khách , Canh Kim trong cung Thân tuy có nhưng cũng khó cứu trợ .
Bàn về cách Thực thần sinh tài , chỉ có một Giáp Mộc , Thực thần quá nhiều làm yếu khí thế của Nhâm Thủy nên cần phối Ấn . Nếu có Canh Ấn xuất hiện nơi Can khắc chế Giáp mới được phú quý . Canh trong cung Thân , khó khắc chế Giáp nơi Thiên can , yếu nhụt với Nhâm , bị khắc chế bởi Hỏa , khó cứu ứng , ắt phải tha hương đất khách .
Nhâm Thủy tháng bảy , nên dụng Mậu Thổ làm chính , Định Hỏa phụ trợ .